Các lĩnh vực nghiên cứu khoa học của Lê Quý Đôn

Thứ 4, 03/08/2016 | 09:50:39
3,021 lượt xem

Thế kỷ XVIII là một thế kỷ rất đặc biệt trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam. Thế kỷ ấy đánh dấu sự suy sụp của chế độ phong kiến từ mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Nhưng cũng thế kỷ ấy lại tạo ra sự phồn vinh rực rõ của chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa yêu nước và của tinh thần sáng tạo trên các lĩnh vực văn hoá, triết học, nghệ thuật... Chính thế kỷ ấy đã sản sinh ra một nhân vật kiệt xuất mà “vài ba trăm năm mới có một người như thế”. Người đó là Lê Quý Đôn.

Lê Quý Đôn (2/8/1726-2/6/1784)

Tên tuổi và sự nghiệp Lê Quý Đôn sáng chói lên không phải chỉ ở vị trí khoa bảng, cũng không phải những gì ông làm được trong phận sự người làm quan. Người ta biết đến Lê Quý Đôn, nhìn ra giá trị đích thực làm nên sự nghiệp của ông, trước hết bởi ông là nhà bác học lớn đã để lại cho đời cả một lâu đài văn hoá và khoa học vô cùng quý báu. Đó là khối lượng đồ sộ những tác phẩm có giá trị, gồm 50 bộ sách lớn với hàng trăm quyển, bao hàm cả khoa học xã hội nhân văn và khoa học tự nhiên. Ông cũng để lại tấm gương sáng về tinh thần và trách nhiệm, về phương pháp làm việc, tư duy khoa học và phong cách sống của người cầm bút chân chính cùng những kinh nghiệm thực tế hết sức phong phú trong học tập, nghiên cứu, sưu tập và trước tác.

Có thể kể ra một số tác phẩm tiêu biểu. Về triết học, có Thư kinh diễn nghĩa, Dịch kinh phu thuyết, Xuân Thu lược luận, Quần thư, khảo biện... Về sử học, có Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Bắc sứ thông lục, Lê triều công thần liệt truyện... Về văn học, có Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt văn hải, Quế Đường thi tập, Quế Đường văn tập... Đặc biệt, bách khoa có Vân Đài loạn ngữ.

Tủ sách tại Khu nhà lưu niệm Lê Quý Đôn tại xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Qua di sản Lê Quý Đôn, người ta thấy hầu như ông đã nắm hết những tri thức và thời đại ông cho phép, từ lịch sử xa xưa của Việt Nam và các nước đến những việc cụ thể hàng ngày như sinh hoạt và ăn uống, từ những đặc điểm của chim muông cây cỏ đến phong tục tập quán của từng huyện, từng làng, từ những tư tưởng thần bí trong các tôn giáo đến những nhận thức khoa học mới nhất về chiều quay của trái đất xung quanh mặt trời.

Tác phẩm của ông bao trùm mọi vấn đề của thiên nhiên, xã hội và con người, thể hiện tài năng và trí tuệ của một danh nhân lỗi lạc về mọi mặt: triết học, xã hội học, sử học, kinh tế học, chính trị học, văn học, nghệ thuật học...

Trần Danh Lâm, bạn của Lê Quý Đôn đã viết về ông: “Không sách gì không đọc, không việc gì không suy xét đến cùng, thường ngày ngẫm nghĩ được điều gì đều viết ngay thành sách, sách chất đầy bàn đầy tủ, kể ra không xiết”. (Lời tựa sách Vân Đài loạn ngữ).

Ngô Thì Sĩ, cũng là bạn ông, viết về cuốn Phủ biên tạp lục: “Sách này chép về xứ Thuận Hoá và Quảng Nam; ghi rõ núi sông, thành ấp, rạch kinh thuế má, nhân tài, vật sản... rõ ràng dễ thấy như nhìn ngón tay trên bàn tay”.

Hai lời đánh giá trên đây đã nói lên hai đặc điểm nổi bật ở Lê Quý Đôn.

“Không sách gì không đọc” để vươn tới đỉnh cao của kiến thức, đó là đặc điểm đầu tiên của người trí thức chân chính, là mục tiêu phấn đấu suốt đời của người ấy. Nhưng đọc sách mà ông “suy xét đến cùng” để gạn đục khơi trong, để biến những kiến thức của xã hội thành những nhận định độc lập của bản thân trước những hiện tượng phức tạp của cuộc sống thì đọc sách như thế chỉ là con mọt sách.

Phạm Nguyễn Du, sau khi đọc những sách của Lê Quý Đôn, đã viết về tinh thần gạn đục khơi trong, độc lập suy xét và suy xét đến cùng ở Lê Quý Đôn như sau: “tập hợp được những chỗ khác nhau mà tóm lấy cái cốt yếu, mổ xẻ cái ngờ vực mà đi đến chỗ tinh tế. Phàm những việc gì mà người trước chưa kịp nêu dẫn chứng, chưa kịp suy nghĩ tới, chưa kịp đặt thành lời, thì nhất thiết phân tích mở rộng rành rọt. Ví như người lên núi mà leo được chỗ cao. Vượt biển mà tìm được chỗ sâu.

Nhìn đất nước mình, “Như nhìn ngón tay trên bàn tay”, đó là đặc điểm thứ hai nổi bật của người trí thức chân chính. Cuốn sách quan trọng nhất của người trí thức chưa phải là những cuốn sách được xếp trong kho của thư viện, mà là cuốn sách rộng lớn mở ra giữa cuộc đời. Khác với những nhà Nho thoát ly thực tế, xa rời nhân dân, Lê Quý Đôn luôn luôn bám sát đời sống xã hội, cố gắng biết rộng nghe nhiều, vừa học tập vừa biên soạn, vừa điều tra nghiên cứu. Chính ông đã viết về ông như sau: “Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thì thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo “Lời dạy lúc qua sân”, lại được giao du với bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy, phụng mệnh làm việc công, bốn phương dong duổi. Đi đến đâu cũng để ý tìm tòi, phàm việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao tiểu đồng đựng vào túi sách, lâu ngày tích tập, sau mới chép thành từng thiên...” (tựa sách Kiến văn tiểu lục).

Kết hợp tri thức sách vở với tri thức đời sống, lại rất cần cù chịu khó, luôn khao khát vươn tới, ông chứng tỏ một năng lực làm việc phi thường.

Phủ biên tạp lục, tập ký gồm 6 quyển đầy ắp những tư liệu có giá trị về hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam, ông chỉ làm xong trong 6 tháng.

Toàn Việt thi lục, bộ hợp tuyển thơ chữ Hán Việt Nam gồm 15 quyển, sưu tầm 239 bài thơ của 175 tác giả, cũng chỉ hoàn thành trong vòng một năm.

Vân Đài loạn ngữ, bộ bách khoa toàn thư này gồm 4 quyển, 9 chương, 967 điều, với những sự việc cụ thể, những nhận định, đánh giá, khen chê rành mạch, đã trích dẫn tới 557 cuốn sách, trong đó có những cuốn sách của châu Âu dịch ra tiếng Trung Quốc. Đó là điều mà xưa nay chưa ai có thể chỉ một mình mà làm được. Đọc chương Phẩm vật trong bộ sách này, người ta thấy Lê Quý Đôn biết đến 201 thứ lúa. Ông còn khuyên các nông gia những việc làm cụ thể: “phép làm cho tốt ruộng, thì nên trồng đậu xanh trước đã, thứ đến đậu nhỏ và vừng, các thứ ấy trồng vào tháng 5, tháng 6. Đến tháng 7 tháng 8 (thu hoạch xong) cày lật úp xuống, làm ruộng trồng lúa cho mùa xuân năm sau thì mỗi mẫu thu được 10 thạch thóc. Những cây đậu và vừng bừa cày lên như thế, sẽ bón cho ruộng tốt ngang với bón phân tằm hay phân người”.

Những kiến thức, những kinh nghiệm, những cách thức làm ăn thiết thực như thế đã tràn ngập trong nhiều tác phẩm của Lê Quý Đôn.

Dân tộc Việt Nam tự hào có một Lê Quý Đôn. Mọi người ngưỡng mộ ông là nhà bác học lớn nhất của thế kỷ XVIII và có thể là của cả thời kỳ trung đại lâu dài trong lịch sử dân tộc, đã để lại một di sản tinh thần cực kỳ to lớn và quý báu.

Ông mãi mãi là tấm gương sáng của người trí thức đã dành cả cuộc đời say mê học tập nghiên cứu và sáng tạo để từ đỉnh cao của văn hoá đương thời đem hết tài năng, sức lực của mình phục vụ cho sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân.

  • Từ khóa
HĐND huyện Vũ Thư tổ chức Kỳ họp giải quyết công việc phát sinh đột xuất
HĐND huyện Vũ Thư tổ chức Kỳ họp giải quyết công việc phát sinh đột xuất

Sáng 26/4, HĐND huyện Vũ Thư khóa XX, tổ chức Kỳ họp để giải quyết công việc phát sinh đột xuất, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội địa phương năm 2024....

Góp ý kiến dự thảo Chỉ thị của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp
Góp ý kiến dự thảo Chỉ thị của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp

Sáng 16/4, Ban tổ chức Trung ương tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc góp ý kiến đối với dự thảo Chỉ thị của Bộ chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Đồng chí Mai Văn...